Sau
năm 1975, đất nước hòa bình thống nhất, cả nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội với
khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Bên cạnh những thuận lợi
chúng ta cũng phải đương đầu với muôn vàn những thử thách khó khăn như: Phải khắc
phục hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh, kinh tế xã hội lâm cào khủng hoảng,
chiến tranh hai đầu biên giới kéo dài đất nước bị bao vây, cấm vận nặng nề. Đời
sống Nhân dân hết sức khó khăn, các thế lực phản động ngoài nước, kích động lực
lượng trong nước nổi dậy chống phá nhiều nơi, đất nước rơi vào tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Lợi dụng tình hình đó, Mỹ
tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hào bình”. Mỹ
đã lợi dụng triệt để sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, tiến hành cấm
vận bao vây, cô lập hòng làm suy yếu Việt Nam, tạo ra dòng người Việt Nam di tản
ra nước ngoài, phần lớn sang Mỹ, được các cơ quan tình báo quốc tế giúp đỡ,tạo
điều kiện ở lại định cư từ đó hình thành nên các cứ điểm phản động chống đối
cách mạng Việt Nam. Lợi dụng tình hình trên các thế lực thù địch và phản động
đã lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá trong và ngoài nước để chống phá cách mạng
Việt Nam. Tuy nhiên còn e ngại trước thất bại của Mỹ, trong những năm đầu hoạt
động của chúng chưa rõ ràng, cụ thể. Trước tình hình trên, đòi hỏi Đảng và toàn
dân tộc phải đồng lòng thống nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc khắc
phục hậu quả của chiến tranh, phát triển kinh tế, ổn định đời sống Nhân dân. Một
trong những nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ thành quả cách mạng, làm phá sản âm mưu
chống phá cách mạng nước ta.
Âm
mưu của các thế lực thì địch
Sau khi Miền nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước,
các thế lực thù địch trống phá nước ta vẫn không tư bỏ âm mưu chống phá cách mạng
Việt Nam, chúng vẫn nuôi tham vọng thâu tóm đất nước ta, chúng gây ra hai cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, lại bị mỹ và các nước
phương tây cấm vận. Các tổ chức phản động quốc tế, phản động lưu vong cấu kết với
nhau thực hiện chiến dịch phá hoại tư tưởng; kích động các tổ chức phản động
trong nước nổi dậy, huấn luyện gián điệp biệt kích nước ngoài đưa vũ khí,
phương tiện về nước làm lực lượng nòng cốt và trang bị cho bọn phản động bên
trong để nổi dậy, cướp chính quyền ở từng xã, từng huyện, từng tỉnh rồi tới bạo
loạn cướp chính quyền trên cả nước.
Sự
ra đời và âm mưu của tổ chức phản cách mạng “Mặt trận thống nhất các lực lượng
yêu nước giải phóng Việt Nam”.
Tháng 3 năm 1975 tiếng súng trên chiến trường Việt Nam đã vang dội đến
Washigton, Bắc Kinh, Paris và các trung tâm tình báo nước ngoài. Một số chính
khách và quan chức cũ của chế độ Sài Gòn sống lưu vong ở Pháp đã nghĩ đến về Việt
Nam để kiếm chác vài vị trí chủ chốt. Theo lệnh của Trần Văn Hữu, Lê Quốc Túy
và Mai Văn Hạnh đã về nước vận động Nguyễn Văn Thiệu tổng thống Việt Nam cộng
hòa trao quyền lực cho họ ở Miền Nam Việt Nam nhưng không thành. Sau đó, Lê Quốc
Túy và Mai Văn Hạnh đã liên lạc gặp gỡ tên đầu sỏ phản động như Hồ Tấn Khoa, Lê
Chơn Tình, Huỳnh Vĩnh Sanh… để chuẩn bị lực lượng, mốc nối với nước ngoài chuẩn
bị tiền bạc, vũ khí để hoạt động. Lê Quốc Túy tiế tục gặp gỡ, bàn bạc, giao nhiệm
vụ cho một số người quen. Khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng Lê Quốc Túy và Mai
Văn Hạnh trở về Pháp để chuẩn bị cho các kế hoạch sau này, Lê Quốc Túy tất bật liên
lạc, móc nối với những mối quan hệ cũ vận động các chính khách,tướng tá của chế
độ Sài Gòn sống lưu vong ủng hộ kế hoạch thành lập một tổ chức nhằm từng bước
“Kháng chiến” đánh đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam. Sau một thời gian chạy vạy, 02/1976
đã tổ chức họp báo tại Pari ra mắt thành lập tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực
lượng yêu nước giải hóng Việt Nam”. Do Lê Quốc Túy làm chủ tịch, Lê Phước Sang làm
phó chủ tịch và Lại Hữu Tài làm ủy viên sáng lập, Lê Phước Sang, Lương Trọng
Văn làm ủy viên để thực hiện kế hoạch đã bàn bạc với các đối tượng phản động
trong nước thực hiện mưu đồ trở lại Việt Nam. Tại đây, Túy đã kêu gọi: “Đồng bào toàn quốc từ
Nam chí Bắc, đồng bào hải ngoại hãy đứng lên triệt để ủng hộ cho mọi nổ lực của
Mặt trận chống lại các bạo lực và chính trị cộng sản trên mọi phương diện cũng
như biểu dương ý chí chiến đấu dưới mọi hình thức và bằng mọi phương tiện để
tích cực ủng hộ cho công cuộc khắng chiến quốc nội được toàn thắng nhằm xây dựng
một Nam Việt Nam tự do, độc lập, phi liên kết”.
Tuy
nhiên, Lê Quốc Túy hiểu rõ rằng nếu chỉ một số nhóm và lực lượng còn mỏng y và Mai
Văn Hạnh xây dựng móc nối ở trong và ngoài nước thì không đủ để thực hiện mục
tiêu của chúng là lật đổ chế độ cộng sản Miền nam Việt Nam. Sau thất bại trong
cuộc chiến tranh xâm lược biên giới, cơ quan đặc biệt nước ngoài chuyển sang kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt và nhận thấy Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh là công
cụ đắc lực để thực hiện âm mưu, chiến lược mới. Sau chuỗi ngày dấn thân làm
chính trị Túy tin rằng hắn có sứ mệnh giải phóng toàn dân Việt Nam khỏi chủ
nghĩa cộng sản, chứ không riêng chỉ giải phóng Miền Nam Việt Nam. Được hậu thuẩn
từ người bạn là Trung Quốc đứng đằng sau, lại tranh thủ được cả Mỹ, Thái, chúng
tiến hành nâng tầm tổ chức, đổi tên “Mặt trận thống nhất giải phóng miền Nam Việt
Nam” thành “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam.
Chúng chọn Thái Lan là nơi đặc trụ sở và xin che chở an ninh cho lực lượng của
chúng, tiến hành xây dựng lực lượng cử người vào các trại tị nạn để tuyển mộ lực
lượng đưa ra bên ngoài huấn luyện thành lập “Kháng chiến quân” để thực hiện mục
tiêu của chúng là “giải phóng Việt Nam”.
1.2. Quá
trình hình thành và mục tiêu cơ bản của Chuyên án CM12
Tháng 10 năm 1980, Lê Quốc Túy nhất quyết tung toán “Minh
Vương 1” về nước bằng đường bộ qua đất Campuchia xâm nhập về chống phá nước ta,
nhận được tin về việc có một toán gián điệp biệt kích nguời Việt lưu vong xâm
nhập Việt Nam qua đường Campuchia. Lãnh dạo bộ nội vụ đã chỉ đạo cho Công an tỉnh
An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang yêu cầu thực hiện nghiêm túc chỉ thị của Bộ trưởng,
triển khai phương án truy tìm gián điệp biệt kích. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của
Lãnh đạo, đoàn cán bộ Công an tỉnh An Giang đã sang Campuchia phối hợp các
chuyên gia an ninh Campuchia trực tiếp xét hỏi đối tượng.
Ngày 22/12/1980, toán gián điệp biệt kích đến Tà Lọt (Campuchia)
giáp kinh Vĩnh Tế, An Giang, 02 tên vào Châu Đốc liên lạc với Lê Chơn Tình cầm
đầu tổ chức phản động. Do không thực hiện được kế hoạch đã bàn với Lê Quốc Túy,
toán gián điệp chia làm 2 cánh: tám tên do Trần Ngọc Minh (K18) toán trưởng
quay lại nước ngoài báo cáo với “Tổng hành dinh”, mười lăm tên do Lê Hồng Ngự
(K34) chỉ huy tiếp tục xâm nhập về nước tìm nơi chú ẩn chờ chỉ thị.
Ngày 18/01/1981, sau khi được lệnh của toán trưởng cho phân
tán, Trần Mình Hiếu về quê ở An Biên, Kiên Giang được gia đình vận động ra đầu
thú khai nhận là một trong số 23 tên gián điệp biệt kích của tổ chức “Mặt trận
thống nhất của lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam”, quá trình xâm nhập của
toán “Minh Vương 1” như thế nào, ngày và nơi hẹn định kỳ, nơi ở ẩn náu của toán
trưởng Lê Hồng Dự. Ngày 20/01/1981 Công an tỉnh Kiên Giang và Công an Hậu Giang
đã tổ chức bắt giữ Lê Hồng Dự tại quầy sách của Châu ở Cần Thơ, đồng thời tạm
giữ Lê Hồng Châu. Dự bị bắt và nhận thấy không còn đường nào khác là phải khai
báo thật thà để được hưởng sự khoan hồng, Dự khai nhận quá trình xâm nhập và hiểu
biết của hắn về tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng
Việt Nam”.
Từ những tin tức và tài liệu thu thập được, ngày 27/01/1981
Bộ trưởng Phạm Hùng chủ trì một cuộc họp tại thành phố Hồ Chí Minh để bàn kế hoạch
đấu tranh với tổ chức của Lê Quốc Túy. Cuộc họp đã đánh giá kết quả công tác đấu
tranh ban đầu, xác định chủ trương đối phó của ta phải đối phó toàn diện, trung
ương phối hợp với địa phương, thống nhất hành động, truy quét và khai thác. Chỉ
đạo cách thức, biện pháp tổ chức thực hiện tập trung về một đầu mối, giao nhiệm
vụ cụ thể cho Công an từng tỉnh có liên quan để thực hiện.
Cuộc họp thống nhất đặt ký hiệu cho chuyên án này là AB-27
(AB viết tắt của từ An Biên, địa danh nơi ta bắt tên biệt kích đầu tiên trong vụ
này; 27 tức là ngày 27/01/1981, thời điển diễn ra cuộc họp quan trọng quyết định
xác lập chuyên án). Từ sau cuộc họp, tổ an ninh K2 chính thức vào cuộc, công an
một số địa phương An Giang, Kiêng Giang, Hậu giang…tổ chức truy lùng ở các khu
vực. Đúng ngày 30/1 Huỳnh Phúc Nam – K17 đi lên Cần Thơ và bị các trinh sát ập
đến bắt một cách nhanh chóng và bí mật.
Tiếp đó Bộ Nội vụ ra lệnh truy nã những tên còn lại của toán “Minh Vương 1” như
Nguyễn Văn Ninh (K15), Nguyễn Thanh Vân (K26), Nguyễn Văn Cụm (K23), Thành
(K16), Sơn Văn Tài (K31), Nguyễn Văn Dũng (k39), Tô Văn Hườn (K38).
Tổ chuyên trách của Đại tá Hồ Khiết chịu trách nhiệm giáo dục, cảm hóa
toán trưởng “Minh Vương 1” Lê Hồng Dự (K34) và truyền tin Huỳnh Phúc Kháng
(K17). Sau khi được cảm hóa K34 và K17 đã khai báo thành khẩn những hiểu biết của
mình về Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực lượng
yêu nước giải phóng Việt Nam”, quá trình hoạt động ở Thái lan, Campuchia, và
vai trò của y thay Trần Ngọc Minh, sẵn sàng thực hiện khi được yêu cầu sử dụng
điện đài liên lạc với “Tổng hành dinh”. Đến ngày 18/3/1981 sau hơn một tháng rưỡi
chuẩn bị chuyên án AB-27 quyết định cho điện đài “Minh vương 1”. Qua theo dõi của
ta, từ ngày 06/1 đến ngày 24/2/1981 đài “Tổng hành dinh” ở trung tâm Bangkok đã
lên máy liên tục để bắt liên lạc với đài của toán “Minh vương 1” nhưng đài của
K17 bặt vô âm tín. Do không liên lạc được với toán quân xâm nhập nên trung tâm
ngừng liên lạc. Sau đó “Tổng hành dinh” còn lên máy một đợt nữa từ
ngày 7/3 đến ngày 12/3/191 mà vẫn không bắt được liên lạc nên ngừng liên lạc.
Qua chuyên án AB-27 ta đã truy bắt toàn bộ bọn xâm nhập,
làm thất bại bước đầu kế hoạch của chúng, âm mưu liên kết của bọn phản động lưu
vong và bọn phản động trong nước. Quá trình đấu tranh khai thác bọn xâm nhập, tổng
hợp các nguồn tin, đã giúp lực lượng Công an phát hiện thêm một số đối tượng phản
động, một số đầu mối cài cắm của địch và đặc biệt là biết được âm mưu, thực lực
của chúng ở nước ngoài, từ đó chủ động xây dựng thế trận, tổ chức đấu tranh.
Qua
lời khai của số gián điệp biệt kích bị bắt trong chuyến xâm nhập vào An Giang
vào tháng 12/1980 và lời khai của Lê Chơn Tình về ý đồ xây dựng căn cứ của Lê
Quốc Tuý, ta phán đoán thời gian tới địch sẽ chuyển hướng, thay đổi đường xâm
nhập về Việt Nam bằng đường biển. Từ nhận định đó, ngày 12/5/1981, Bộ trưởng Phạm
Hùng triệu tập một hội nghị đặc biệt tại TP. Hồ Chí Minh gồm những người đứng đầu
cơ quan Công an các tỉnh duyên hải Nam Bộ để bàn biện pháp tăng cường công tác
phòng ngừa gián điệp biệt kích xâm nhập (họp từ ngày 12/5-15/5/1981). Ngày
12/5/1981, hội nghị phòng, chống gián điệp biệt kích khai mạc, cũng chính ngày
này Lê Quốc Tuý ra lệnh cho tàu B2 mang theo vũ khí và gián điệp biệt kích xâm nhập
bằng đường biển vào nước ta.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ nội vụ: tổ chức đấu tranh để tấn
công lại địch, các lực lượng liên quan đã tiến hành nhiều biện pháp, quyết tâm
thực hiện phiên liên lạc đầu tiên với trung tâm địch đúng ngày 22/5/1981 như địch
chỉ định. Đối với nhân viện điện đài (K27), rút kinh nghiệm từ chuyên án AB27,
ban chuyên án chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi để K2 yên tâm làm chủ máy móc.
Đúng quy ước chiều ngày 22 tháng 5 năm 1981, phiên liên lạc địch được thực hiện,
phiên liên lạc thành công đã mỡ ra hướng đấu tranh mới. Đồng chí Thứ trưởng Cao
Đăng Chiếm tổ chức ngay cuộc họp tại trại “Cây Gừa” quyết định lập chuyên án đấu
tranh với trung tâm địch. Nhiệm vụ của chuyên án lúc này là:
(1)
Tương kế tựu kế, dùng địch đánh địch; giương bẫy bắt gọn các toán gián điệp xâm
nhập, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện. Bằng mọi cách buộc địch xâm nhập theo kế
hoạch của ta, buộc chúng phải đi đường biển, đúng nơi ta chuẩn bị sẵn.
(2)
Thông qua việc địch ở nước ngoài móc nối mạng lưới trong nội địa, ta có kế hoạch
điều tra, bóc gỡ toàn bộ mạng lưới của địch.
(3)
Từng bước tìm hiểu âm mưu chiến lược, âm mưu cụ thể và kế hoạch hành động của địch
để chủ động đối phó, ngăn chặn địch thực hiện âm mưu cụ thể, tiến hành trấn áp
trước khi chúng hành động phá hoại.
Để thực hiện 3 nhiệm vụ trên, Bộ Nội vụ tiến hành kế hoạch lấy tên là Kế
hoạch CM12. Đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng chỉ đạo: không gọi chuyên án, gọi là Kế
hoạch
CM12, viết tắt là “KH.CM12”. KH.CM12 là một đơn vị đặc biệt, hoạt động mang
tính độc lập không trực thuộc một đơn vị nghiệp vụ hay một ty Công an nào; chọn
lựa, huy động cán bộ từ nhiều lực lượng nghiệp vụ của các Vụ, Cục và Công an
các tỉnh miền Nam. “KH.CM12” được triển khai trên địa bàn rộng lớn từ Minh Hải,
Kiên Giang, Hậu Giang đến TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh và các tỉnh miền
Trung cho đến nước ngoài. Trong quá trình đấu tranh, yêu cầu phát triển đến đâu
lực lượng được đáp ứng đến đó. KH.CM12 đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng
Phạm Hùng và Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm. Mọi hoạt động của các lực lượng tham
gia KH.CM12 đều theo một chương trình thống nhất dưới sự chỉ huy, chỉ đạo trực
tiếp, tập trung của một ban chỉ đạo gồm các đồng chí lãnh đạo cao cấp, có năng
lực, giàu kinh nghiệm. Các chuyên án, các đầu mối có liên quan đến KH.CM12 đều
phải phục tùng, phục vụ cho KH.CM12, như: chuyên án TK09 đấu tranh với bọn cầm
đầu phản động trong một tổ chức tôn giáo; chuyên án TQ42 đấu tranh với tổ chức
phản động “Mặt trận quốc gia Việt Nam” do Lê Quốc Quân cầm đầu; chuyên án H82 đấu
tranh với Huỳnh Vĩnh Sanh, Chủ tịch “Mặt trận” phụ trách quốc nội của địch;
chuyên án PK07 đấu tranh với tổ chức phản động tại địa bàn Phú Khánh.
Diễn
Biến Của Kế Hoạch Phản Gián CM12 (KH.CM12)
Trong lúc Bộ trưởng Phạm Hùng triệu tập một hội nghị đặc biệt
tại TP. Hồ Chí Minh để bàn biện pháp tăng cường công tác phòng ngừa gián điệp
biệt kích xâm nhập. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1981, lực lượng của ta đã phát hiện
hoạt động của tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt
Nam”, xác định một tàu lạ ở vùng biển phía tây đảo Thổ Chu, cách vùng biển Cà
Mau 130 Hải lý. Cơ quan trinh sát kỹ thuật nhận định bọn gián điệp biệt kích của
Lê Quốc Túy đã xâm nhập vùng biển Minh Hải, kết quả phát hiện đã mở màn cho
chuyên án mới.
Nguồn tin trên chưa kịp
xác minh làm rõ thì ngày 16/5/1981, một người dân ở Rạch Lăng thuộc huyện Trần
Văn Thời, Minh Hải dẫn con rể là Phạm Thanh Danh (K64), người trốn về nhà đêm
15/5 đến gặp Chủ tịch huyện Trần Văn Thời tự thú là gián điệp biệt kích mới xâm
nhập về. Đồng chí Chủ tịch triệu tập gấp cuộc họp và tổ chức truy bắt gián điệp
biệt kích xâm nhập. Vào thời điểm đó, Phó Trưởng
công an xã Khánh Hải báo cáo Công an huyện về việc người dân phát hiện một số
thùng vũ khí được chôn giấu cở vàm kênh Bảy Ghe. Phối hợp với nguồn tin Công an
tỉnh thông báo, Công an huyện Trần Văn Thời kết luận đây là một toán gián điệp
biệt kích đã xâm nhập vào bờ ở khu vực vàm kênh Bãi Ghe (nay gọi là Bảy Ghe) và
lập nhanh phương án truy bắt. Tiếp
đó, tên Trịnh Văn Kiếm (K59) đã đến Công an đầu
thú, Công an huyện Trần Văn Thời đã đưa K64 và K59 đến địa
điểm gián điệp biệt kích ẩn náu để kêu gọi toán trưởng và tên điện tín viên ra
hàng. Trong vòng hai ngày toàn bộ nhóm gián điệp gồm chính tên đã
bị bắt, công an thu giữ điện đài và cho dẫn dãi cả toán về Công an huyện. Sau
đó, các lực lượng của huyện Trần Văn Thời tiếp tục ra bờ biển thu giữ vũ khí. Đến
khoản 3 giờ chiều ngày 17/5/1981 thì vớt được hết 3,5 tấn vũ khí và đưa toàn bộ
về công an huyện. Từ kết quả đó, đồng chí Cao Đăng Chiếm, Thứ trưởng Bộ Nội
vụ đã chỉ
đạo tổ chức lập kế hoạch đấu tranh tấn công lại địch.
Các đối tượng bị bắt khai báo: Theo sự chỉ đạo của Túy, Hạnh
toán xâm nhập do Nguyễn Văn Thạnh (K44) cầm đầu sẽ ẩn náu tại tỉnh Minh Hải,
thành lập “Tổ đặc biệt” (tổ tiếp vận kinh tài) ở Cà Mau để làm cầu nối tiếp nhận
vũ khí, phương tiện, gián điệp biệt kích xâm nhập về bằng đường biển. “Tổ đặc
biệt” gồm 4 tên: Phạm Thanh Danh (K64) phụ trách chung; Bùi Xuân Huy (K27) phụ
trách điện đài liên lạc với trung tâm và đội tàu; Trịnh Văn Kiếm (K59) và Doãn
Văn Dũng (K61); ngoài “Tổ đặc biệt”, mỗi tên có nhiệm vụ riêng. Toán K44 xâm nhập
là mở đầu cho một kế hoạch lớn của Tuý, Hạnh; sau toán K44 sẽ là các toán xâm
nhập khác cùng các loại vũ khí, phương tiện làm bộ khung vũ trang và trang bị
cho lực lượng phản động trong nước hình thành đội quân phản cách mạng. Trong số 8 tên bị
bắt, trừ 3 tên đầu thú, số còn lại đều có thái độ khai báo thành khẩn. Riêng
K27 là nhân viên điện đài lúc đầu rất ngoan cố, lực lượng công an kiên trì giáo
dục cuối cùng K27 đã khai rõ quy ước liên lạc và tự nguyện xin lập công chuộc tội.
Sau
chuyến xâm nhập đầu tiên ngày 15/5/1981 vào Bãi Ghe, Sống
Đốc, Minh Hải do K44 làm toán trưởng và 08 tên gián điệp biệt kích (ta đã bắt sống
08 tên, tiêu diệt 01 tên, thu 3,5 tấn vũ khí, 01 máy truyền tin). Qua tổ chức
liên lạc bằng điện đài với Trung tâm địch thành công, ta đã nắm được ý đồ xâm
nhập của địch, từ đó chủ động triển khai kế hoạch, bố trí đón bắt các chuyến
xâm nhập.
Chuyến
xâm nhập lần thứ hai: Ngày 6/9/1981 hai chiếc tàu của địch gọi là B1 và B2 mang
biển hiệu QK7 (Quân khu 7) và Phù Khánh của Việt Nam chở 16 tấn vũ khí,
3.800USD, 21.694 đồng; 01 bộ mật mã mới và 06 tên “cán bộ thành” do Trần Ngọc Điền (K55) chỉ huy tăng tốc, xâm nhập
vùng biển Việt Nam. Khoảng 19h ngày 09/9/1981 hai tàu xâm nhập vào vùng biển
Bãi Ghe, ta bắt gọn 06 tên gián điệp và thu giữ toàn bộ vũ khí. Việc bắt giữ 06
tên “cán bộ thành”, thu giữ toàn bộ vũ khí diễn ra nhanh gọn, không một tiếng
súng. Sau một tuần thuyết phục, cảm hóa, động viên các đối tưởng đã khai mục
đích hoạt động xâm nhập về nước nhằm thành lập Liên tỉnh xứ, hoạt động tại các
địa bàn.
Qua thư của Lê Quốc Túy gửi “Tổ đặc biệt” và kết quả khai thác số gián
điệp biệt kích mới xâm nhập, cùng với thông tin của lực lượng trinh sát kỹ thuật,
Ban chỉ đạo kế hoạch CM-12 nắm được khá đầy đủ ý đồ và kế hoạch của Lê Quốc Túy
như sau: Sáu “cán bộ thành” sẽ hoạt động do K55 phụ trách, HK175 làm toán phó
và 04
nhân viên là K42, HK168, HK143, HK145. Địa bàn hoạt động của
tổ K55 là các vùng Sài Gòn, Phan Rang, Phú Khánh, Cần Thơ, Rạch Gía. Ngoài ra tổ
K55 còn có nhiệm vụ ám sát cán bộ. Những bước đầu chủ yếu là móc nối gây cơ sở,
chưa được hành động phá hoại. “Tổ đặc biệt” có toàn quyền chỉ huy các K và HK ở
quốc nội. Mục tiêu phá hoại kho xăng Nhà Bè, kho Long Bình, cầu Sài Gòn, cầu Bến
Lức, Nhà Thờ Đức Bà, Nhà hát TP. Hồ Chí Minh và một số cơ sở kinh tế khác,...
Lê Quốc Túy chủ trương trong tháng 9 sẽ vào ba chuyến, sau đó sẽ chuyển hết 500
tấn vũ khí về nước với 10 chuyến tiếp theo ở các vùng Minh Hải và vùng biển Phú
Khánh.
Căn cứ vào nhiệm vụ trung tâm của từng tên, lãnh đạo Bộ nội
vụ hội ý nhanh về kế hoạch CM-12. Phân tích tình hình, diễn biến và nhận địch sắp
tới là “Địch chắc chắn sẽ cho vào chuyến thứ hai và thứ ba vì chúng muốn tăng
cường lực lượng người và vũ khí để có thể hoạt động còn những chuyến trong
tháng 11 và 12 cần theo dõi và xem xét tình hình mới đánh giá được”.
Chuyến
xâm nhập lần thứ 3: Ông Phạm Hùng dự đoán là chuyến thứ ba địch sẽ đưa người
vào để nắm lấy căn cứ, trực tiếp chỉ huy dùng tàu để trực tiếp vận chuyển vũ
khí và người. Ngày 21/9/1981, địch đưa hai tàu chở mười bốn tấn vũ khí vào nước
ta và mười một tên gián điệp biệt kích do Trần
Ngọc Minh (K18) làm toán trưởng. Tất cả mọi diễn biến hoạt động của “Mặt trận
thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” ở nước ngoài, Ban chỉ đạo
CM12 đã nắm được hầu hết. Việc chúng chuẩn bị cho số gián điệp biệt kích vào lần
này cũng đã được biết trước và chủ trương của ta sẽ không tiếp người, cuối cùng
bọn chúng phải quay lại nước ngoài. Số vũ khí mang theo được thả xuống biển,
tuy nhiên gặp bão nên trôi dạt khắp nơi, ta tổ chức vớt được một số vũ khí. Ban
chỉ đạo Kế hoạch CM12 tổ chức rút kinh nghiệm và đánh giá, yêu cầu đặt ra đối với
chuyến này đạt kết quả tốt, đúng kế hoạch.
Thành công trong “chiến thuật” tạm đẩy toán gián điệp biệt
kích của K18 trở lại mà không tham bắt là để tính toán “làm ăn lâu dài”, nghĩa
là thu hút cho hết lượng của địch ở nước ngoài về trong nước như chỉ đạo của
lãnh đạo bộ nội vụ.
Qua khai thác số gián điệp biệt kích xâm nhập bị bắt, ta biết được bản
tính độc đoán, chuyên quyền, thích được nịnh của Lê Quốc Túy. Lợi dụng điểm này
ta đã cho “Tổ đặc biệt” khéo léo dùng lời lẽ trong các bức điện làm cho Túy
càng tin tưởng vào “Tổ đặc biệt”, buộc chúng thực hiện theo kế hoạch của ta.
Tin tưởng vào “Tổ đặc biệt”, Lê Quốc Túy đã bộc lộ một số cơ sở của Túy đã xây
dựng từ trước. Trong tuần tháng 11/1981, Lê Quốc Túy lại chỉ thị cho K64 “Bằng
mọi cách phải chuẩn bị địa điểm cư trú quân tạm thời cho khoảng 30 người và chuẩn
bị đón 06 “cán bộ thành”, lo sẵn phương tiện và cơ sở để nuôi quân tạm thời
trong một tháng ở vùng Gành Hào hoặc từ Đá Bạc đến Tiểu Dừa”. Đến ngày
19/11/1981, trung tâm địch thông báo cho “Tổ đặc biệt” là chuyến tới có 4 tàu
chở hàng (khoảng 25 tấn) 30 quân và 6 “Cán bộ thành” cùng một truyền tin phụ
cho K27. Ngày 21/11/1981, “Tổ đặc biệt” vẫn kiên quyết từ chối khéo việc đổ bộ
một lúc 30 quân nhằm đảm bảo thực
hiện đúng chủ trương chiến lượt là kéo địch vào dần dần. Đồng
thời đề nghị đưa “cán bộ thành” vào trước và trong chuyến này để lại 2 tàu cho
“Tổ đặc biệt”, địa điểm xâm nhập là vàm Bãi Ghe.
Chuyến
xâm nhập lần thứ 4: Ngày 18/01/1982, đài “Tổng hành dinh” cho biết là “chiến dịch không thay đổi, Đại đội
124 sẽ vào chuyến này gồm có 50 K”, trước khi xuất phát để khích lệ “kháng chiến
quân” xâm nhập Việt Nam, Lê Quốc Túy tuyên bố nâng cấp “Đại đội 124” thành Tiểu
đoàn 124”. Ngày 29/1/1982 “Tiểu đoàn 124” rời khỏi mật cứ “Tự trắng” hành quân
tập kết ở Đồn 506 của Sở đặt nhiệm Biên phòng Thái Lan. Tiểu đoàn 124 có 45
kháng chiến quân chứ không phải 50K như lúc đầu, đúng 04 giờ sáng ngày 30/01/1982,
hai tàu B1 và B2 rời cảng Rayon để xâm nhập Việt Nam.
Trước đó, Ban chỉ đạo Kế hoạch CM12 đã biết địch chuẩn bị
cho chuyến xâm nhập sắp tới. Bộ phận chỉ huy tiền phương họp bàn kế hoạch đón
hàng trong chiến dịch mới, mục đích của ta là bắt sống toàn bộ toán này, trong
trường hợp chúng kháng cự thì mới tiêu diệt. Đến ngày 01/02/1982 vào đất liền,
bọn chúng được trang bị vũ khí mạnh, lương thực thực phẩm đầy đủ, tuy nhiên lực
lượng của ta đã có sự chuẩn bị từ trước, chúng ta bao vây, cho phát loa kêu gọi
đầu hàng. Chúng có mang vũ khí như B40, RPD, AK47…nên ngoan cố nổ súng bắn trả,
quân ta nổ súng bắn thẳng vào bọn biệt kích, 07 tên bị bắn chết, bắt sống 38
tên, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện.
Chuyến
xâm nhập thứ năm: Sau chuyến đổ bộ “Tiểu đoàn 124”, Lê Quốc túy và Mai Văn Hạnh
tổ chức thêm ba chuyến xâm nhập bằng tàu biển vào bờ biển Minh Hải. Các chuyến
này cũng do ta chủ động bố trí bãi đổ, do có kinh nghiệm qua các chuyến trước,
thực hiện phương pháp sang hàng nhanh hơn. Sau chuyến đổ hàng và “Tiểu đoàn
124” đêm 01/02/1982 chuyến xâm nhập lần thứ năm kể từ chuyến xâm nhập đầu tiên
của địch (năm 1981), đổ hàng trong đêm 8/2/1982. Chuyến này hai tàu xâm nhập
vào hòn đá bạc, “Tổ đặc biệt” đưa 2 tàu ra cp mạn tàu xâp nhập, các “thủy thủ
đoàn” phối hợp các “thủy thủ nội địa” bốc dỡ hàng rất nhanh, đảm bảo 9.496 kg
vũ khí các loại như súng AK, súng trường bán tự động, lựu đạn và đạn B40.
Chuyến
xâm nhập thứ sáu: Ngày 18/02/1982, hai tàu xâm nhập của địch đã vào Hòn Đá Bạc,
ta đưa tàu ra tiếp nhận trên 9 tấn vũ khí các loại. Trong thời gian này, địch
yêu cầu “Tổ đặc biệt” liên lạc với đại đội 124, cung cấp cho đại đội này tiền,
bổ sung điện đài và yêu cầu gọi HK122 và K43 sang nước ngoài nhận chỉ thị; chuyển
chất nổ cho HK175 và HK145 mang về Sài Gòn tổ chức phá hoại.
Chuyến
xâm nhập thứ bảy: Ngày 27/2/1982 chuyến xâm nhập thứ 7 bằng đường biển cũng
vào Hòn Đá Bạc lần này số vũ khí, đạn dược nhiều hơn với 11.528 kg vũ khí, đạn
dược được tiếp nhận an toàn.
Qua các chuyến xâm nhập của địch, ta thu giữ được 38,2 tấn
vũ khí, chất nổ; 04 tấn hàng, 05 máy phát điện Honda xách tay, 4 máy nổ Yanmar,
01 máy thu phát VTĐ của nhật sản xuất; 51,5 cây vàng. Ta đã bắt sống, tiêu diệt
toàn bộ bọn gián điệp biệt kích, tổng cộng đến thời điểm cuối tháng 02/1982 là
97 tên; tịch thu trên 70 tấn vũ khí, 06 điện đài, nhiều tài liệu quan trọng và
một số hàng hóa, tiền, vàng.
Ta đã phát hiện được mạng lưới cơ sở nội địa của quần chúng
(gần 50 cơ sở), đặc biệt có các đầu mối quan trọng như Hồ Tấn Khoa, Huỳnh Vĩnh
Sanh và Lê Quốc Quân. Ta nắm được âm mưu, ý đồ trước mắt và lâu dài của địch để
có kế hoạch đối phó.
Đầu tháng 4/1982, để chuẩn bị cho công tác thực hiện nhiệm
vụ sắp tới, bộ phận chỉ huy tiền phương của Ban chỉ đạo Kế hoạch CM12 triển
khai thực hiện việc thành lập một “Đại đội Cảnh sát đặc biệt vũ trang” theo chỉ
thị của Bộ trưởng Phạm Hùng. Công an Minh Hải rà soát, lựa chọn cán bộ, chiến
sĩ cảnh sát cấp bậc thượng sĩ trở lên, và một số cán bộ chiến sĩ công an địa
phương thông thạo địa hình khu vực bờ biển U Minh, có phẩm chất đạo đức tốt, có
sức khỏe để có thể hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt của Kế hoạch CM12, đại đội gồm
105 cán bộ. Tin thần của anh em cán bộ, chiến sĩ đại đội cảnh sát đặc biệt rất
cao, sẵn sàng chiến đấu và nhận nhiệm vụ bất kể tình huống nào, kể cả trường hợp
có thể nguy hiểm đến tính mạng. Ban chỉ đạo CM-12 bố trí một bộ phận lực lượng
“Đại đội đặc biệt” đóng quân trên Hòn Đá Bạc. Chuyến xâm nhập thứ tám: Theo kế hoạch ngày
13/4/1982, Mai văn Hạnh (C5) sẽ vào kiểm tra tình hình và ở lại khoảng 4 - 5
ngày, yêu cầu tổ đặc biệt mời ông S (tức Huỳnh Vĩnh Sanh), HK122, K43, K55, HK175,
HK145 và Lê Quốc Quân đến gặp. Ta nhận định đáng giá chuyến vào lần này của C5
nhằm kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của số đã xâm nhập vừa qua và chỉ thị
công tác sắp tới đối với các toán đã xâm nhập. Không loại trừ khả năng tìm hiểu sự mất tích của K44 và toán
Minh Vương 1; gặp các đầu mối bí mật trong nước như Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Văn
Quân, Hồ Thái Bạch.. đây là bước chuẩn bị cho Lê Quốc Túy (C4) vào kiểm tra và
dự kiến khả năng chuyển sang giai đoạn 2. Từ dó, Ban chỉ đạo KH.CM12 đã có kết
hoạch cụ thể để chống việc kiểm tra của C5 đối với “Tổ đặc biệt”, các K và HK
đã về nước nhằm yêu cầu làm cho Túy và Hạnh không nghi ngờ, củng cố lòng tin của
chúng đối với “Tổ đặc biệt”. Qua đó, buộc chúng bộc lộ âm mưu và kế hoạch hành
động sắp tới. Bố trí chu đáo cho C5 gặp các cơ sở bí mật của chúng, làm cho
lòng tin của các cơ sở trong nội địa như Nguyễn Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân… đối với
tổ đặc
biệt được củng cố, ta có điều kiện tiếp tục công tác trinh
sát để bóc gỡ mạng lưới của chúng ở trong nước mà ta chưa nắm được. Đồng thời nắm
thêm những cơ sở bí mật khác có thể bị bộc lộ trong các cuộc gặp gỡ với C5 cũng
như âm mưu, ý đò mới của chúng. Bằng sự tác động của ta, thông qua các cuộc gặp
gỡ giữa C5 với các K, HK, ngăn chặn không cho chúng chuyển sang giai đoạn 2.
Việc chuẩn bị cho kế hoạch đón và àm việc với C5 được ta thực
hiện chu đáo. Lãnh đạo tổ an ninh trực tiếp gặp gỡ, hướng dẫn, giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức cần thiết cho K, HK được bố trí gặp Mai Văn Hạnh lần này. Các phương
án giám sát được bố trí một cách khéo léo và có các phương án xử lý khi có sự cố
xảy ra ngoài ý muốn. Công an Minh Hải bố trí một số điểm kiểm soát giả dọc tuyến
đường vào để làm cho Mai Văn Hạnh có cảm giác là hoạt động ở trong nước không dễ
dàng, đồng thời tin tưởng thêm vào tổ đặc biệt. Tối ngày 13/4/1982, hai tàu xâm
nhập của địch vào tới Đồng Cùng, trong chuyến này ta tiếp nhận gần sáu tấn đạn
B40.
Chuyến xâm nhập
thứ chín: Đến ngày 19/4/1982, hai tàu địch xâm nhập vào Hòn Đá Bạc,
ta tổ chức đưa Mai Văn Hạnh về nước ngoài theo tàu xâm nhập an toàn và tiếp nhận
gần 10 tấn vũ khí gồm đạn AK và B40. Kế hoạch đưa đón “đồng chí chủ tịch” Mai
Văn Hạnh tức C5 được thực hiện thắng lợi.
Chuyến
xâm nhập thứ mười: Qua những nội dung mà Mai Văn Hạnh chỉ thị cho Huỳnh Vĩnh
Sanh, Lê Quốc Quân và các toán trong nước, Ban chỉ đạo kế hoạch CM12 nhận định
địch chưa chuyển giai đoạn mà vẫn làm theo ý đồ của ta. Vào ngày 23/5/1982 “Tổ
đặc biệt” nhận được thông báo của “Tổng hành dinh” cho biết C4 đến trước với 10
“cán bộ thành”, C5 vào sau hai ngày với phân bố như đã hứa. Việc C4, C5 không
cùng vào là tình huống nằm ngoài dự kiến của ta. Vì vậy, Ban chỉ đạo Kế hoạch
CM-12 kiên quyết không để chúng thực hiện ý định này. Tuy nhiên, thực tế không
diễn ra như mong muốn của ta và cả Lê Quốc Túy. Tàu của Mai Văn Hạnh đi đảo Hải
Nam về trễ hơn dự kiến, Túy liên tục hẹn vào tối 02/6 rồi 03/6 và cuối cùng ấn
định chắc chắn là tối 04/6/1982. Ta tổ chức tiếp nhận quân và mười tấn tiền giả,
một điện đài.
Chuyến xâm nhập
thứ mười một: 20 giờ ngày 12/6/1982, tàu xâm nhập của địch vào Lung Tràm,
Minh Hải, ta đưa Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh lên tàu và tổ chức tiếp nhận 12 tên
gián điệp biệt kích xâm nhập do Đàm Quang Bảy (HK123) làm toán trưởng và 09 tấn
vũ khí.
Sau chuyến xâm nhập Việt Nam “thành công”, về đến Bangkok, Lê Quốc Túy
phấn khởi gửi ngay một bức điện khen ngợi “Tổ đặc biệt” trong “đợt công tác” vừa
qua. Ngày 22/6/1082 Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm chủ trì cuộc họp với lãnh đạo tổ
an ninh, Giám đốc công an Thành phố Hồ Chí Minh và Giám đốc Công an Đồng Nai. Nội
dung nhằm đánh giá tình hình diễn biến của cuộc đấu tranh và kết quả hơn một năm
thực hiện Kế hoạch CM-12, đặc biệt là hai chiến dịch tháng 4 và tháng 6
cho Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh xâm nhập. Ban chỉ đạo Kế hoạch
CM-12 quyết định “kiên quyết bằng mọi biện pháp duy trì kế hoạch, đạt mục đích
chính trị do Bộ trưởng đề ra. Trước đó, lực lượng của ta đã bắt giữ Lê Quốc
Quân và tiến hành khai thác ngay. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, Lê
Quốc Quân không thể không khai báo về những hoạt động và mạng lưới tổ chức của
hắn.
Chuyến
xâm nhập thứ mười hai: 20h ngày 10/2/1983, 02 tàu xâm
nhập vào Vàm Kinh Mới, Minh Hải. Ta tổ chức tiếp nhận 14 tên gián điệp biệt
kích do Huỳnh Văn Phước (K94) làm toán trưởng và hơn 9 tấn vũ khí. Qua nghiên cứu
các chỉ thị của địch và khai thác số bị bắt, ta nắm được địch dự kiến đưa căn cứ
huấn luyện vào nội địa, xây dựng thêm căn cứ ven biển, huấn luyện và mở rộng tầm
hoạt động, mua chuộc cán bộ ta, khi có điều kiện tổ chức đánh chiếm, cướp chính
quyền ở các tỉnh miền Tây; mở thêm quân khu C gồm các tỉnh Rạch Giá, Hà Tiên,
Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc. Kế hoạch nói trên của địch đã nằm trong dự kiến
của ta và đã có kế hoạch đối phó.
Chuyến
xâm nhập thứ mười ba: 20 giờ 25 phút ngày 01/3/1983, 02 tàu của địch vào Vàm Đồng
Cùng, Minh Hải. Ta đưa tàu ra tiếp nhận 10 tên gián điệp biệt kích do Lê Văn Tư
(HK214) làm toán trưởng và hơn 11 tấn vũ khí. Qua khai thác số bị bắt được biết,
sau khi toán HK214 về nước, mật cứ 37 Ngô Văn Viên đóng cửa, HK214 đốt hết giấy
tờ có chữ viết Việt Nam và xóa hết dấu vết liên quan đến việc ăn, ở sinh hoạt tại
mật cứ. Việc đóng cửa mật cứ này phù hợp với ý đồ chuyển mật cứ về nội địa.
Chuyến
xâm nhập thứ mười bốn: Đúng 20 giờ ngày 23/3/1983, 02
tàu xâm nhập vào Vàm Đồng Cùng thuộc tỉnh Minh Hải “Tổ đặc biệt” cho 2 tàu ra
tiếp nhận 10.788 kg vũ khí, số hàng hóa và 4.000 đô la tiền mặt cùng 3 tên gián
điệp biệt kích gồm K14- Bùi Lê Vân Sơn và 2 tên khác là K104 VÀ HK201. Bộ trưởng
Phạm Hùng hiểu rằng khó có thể ngăn chặn được hoàn toàn tin tức về những vụ
“Minh Vương 1” và “Tiểu đoàn 124” bị bể, nhưng nghiên cứu kỹ toàn bộ các bức điện
chỉ đạo và hành động của Túy, Hạnh cho đến thời điểm này, ông nhất trí với nhận
định của Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 cho rằng chúng vẫn tin tưởng vào “Tổ đặc biệt”
và toán K55. Ông kiên định với chủ trương “Tương kế tựu kế, dùng địch đánh địch”.
Chuyến xâm nhập
thứ mười lăm: Lúc 20 giờ ngày 24/5/1983 hai tàu địch vào vàm Đồng Cùng, ta
đưa tàu ra nhận hàng do đẩy lùi được C4, C5 và K09 chưa vào lần này nên việc tiếp
nhận “hàng đặc biệt” diễn ra nhanh chóng và đảm bảo an toàn. Lần này “Tổ đặc biệt”
tiếp nhận 04 tấn “Hàng đặc biệt” (loại giấy bạc 50 đồng, tổng số 200 triệu),
170kg thuốc tân dược bao gồm thuốc chống sốt rét, cảm cúm, viatmin C và 5 máy
điện đài liên lạc tầm xa do Trung Quốc chế tạo.
Qua một số chuyến xâm nhập, nhất là sau chuyến xâm nhập vừa qua, Lê Quốc
Túy tỏ ra lạc quan vì đã có cơ sở vật chất, phương tiện, lực lượng ở trong nước.
Ngoài
quan hệ chặt với các thế lực phản động quốc tế, chúng đã tiếp
xúc được với Mỹ, có dò thêm mối quan hệ với Nhật. Sau một bước “tung hàng đặc
biệt” chúng sẽ bắt đầu hoạt động đồng loạt nhưng vẫn theo đường lối bành chướng
một số vùng rừng núi, nông thôn làm căn cứ, chưa thể gây bạo loạn chung ở Miền
Nam được. Tuy nhiên,qua chiến dịch tác động của ta vừa qua, nhất là việc phá
các tổ chức phản động lợi dụng đạo Cao Đài đã có tác động nhất định đến tư tưởng của Lê Quốc Túy. Chúng đã
chấp nhận lùi một bước để có thêm thời gian chuẩn bị.
Để tiếp tục thực hiện chủ trương vô hiệu hóa hàng đặc biệt
của địch, Bộ trưởng chỉ đạo, đối phó làm vô hiệu hóa toàn bộ số “hàng đặc biệt”
(kể cả cũ và mới), không cho ra một đồng nào dù là hình thức đổi. Yêu cầu chung
là làm thất bại hoàn toàn âm mưu của địch nhưng phải đảm bảo duy trì Kế hoạch
CM-12.
Chuyến xâm nhập thứ mười sáu:
Đến ngày 11/6/1983, địch tiến hành xâm nhập lần thứ 16 chuyến này địch chỉ đưa
vũ khí vào mà không có quân. Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 cho “Tổ đặc biệt” đồng
ý tiếp nhận. Trước đó, vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 8/6/1983, trung tâm địch điện
cho “Tổ đặc biệt” thông báo “Đêm 11/6 hai cá sẽ đến điểm hẹn”. Theo kế hoạch,
Ban chỉ đạo kế hoạch CM-12 bố trí cho hai tàu xâm nhập vào vàm Kinh Mới, hai
tàu của ta ra tiếp nhận 13.091 kg vũ khí, súng đạn (bao gồm súng đạn đại liên,
súng AK, lựu đạn, đạn B40 và đạn đại liên). Việc tiếp nhận được thực hiện theo
kế hoạch, hàng được vận chuyển về kho bảo quản an toàn tuyệt đối.
Chuyến
xâm nhập thứ mười bảy: Đến ngày 9/5/1984 “Tổng hành
dinh” chuyển bức điện cho “Tổ đặc biệt”: “vào lúc 20 giờ ngày 20/5/1984 hai tàu
của địch xâm nhập vào Hòn Đá Bạc”. Đến 20 giờ ngày 20/5/1984, 02 tàu địch xâm
nhập vào Hòn Đá Bạc, Minh Hải, ta tổ chức tiếp nhận 681 kg vũ khí, tiền giả; đồng
thời chuyển báo cáo của các “cơ sở” nội địa cho K09 trình C5 nhằm tác động để
Lê Quốc Túy, MaiVăn Hạnh vào chuyến sau.
Chuyến
xâm nhập thứ mười tám: Cuối tháng 8/1984 Lê Quốc Túy
thông báo cho cơ sở trong “quốc nội” trong khoảng thời gian đầu tháng 9 thì Mai
Văn Hạnh sẽ vào. Nhận được tin, Bộ trưởng Phạm Hùng và thứ trưởng Cao Đăng Chiếm
phân công ông Bùi Thiện Ngộ, lúc này “đặc phái viên” của Bộ trưởng và ông Lê
Minh Học xuống Minh Hải cùng ông Hai Tân trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện
chiến dịch. Có thể gọi đây Ban chỉ huy tiền phương của chiến dịch kết thúc Kế hoạch
CM-12. Ngày 01/9/1984 “Tổng hành dinh” thông báo cho “Tổ đặc biệt” dự trù cá sẽ
tới điểm hẹn khoảng tối mùng 7,8,9. Chiều ngày 09/9/1984 Ban chỉ huy tiền
phương ra Hòn Đá Bạc, 20 giờ kém 15 phút, qua máy bộ đàm K64 tàu địch xuất hiện.
Hai tàu của ta áp sát 2 tàu của địch, anh Tám Thậm và một người của “Tổ đặc biệt”
xuống đón Mai Văn Hạnh đưa vào đất liền. Sau đó, người của “Tổ đặc biệt” dụ Trần
Văn Bá và truyền tin Hậu lên đảo và tiến hành bắt giữ trong bí mật. Trong khi
đó, trên các tàu công việc sang “hàng” từ tàu địch sang tàu ta vẫn tiến hành
như thường lệ. Đúng như kế hoạch sau khi sang hàng khoảng một tiếng, K64 đã
khai hỏa bằng một loạt đạn AK-47. Quân ta đồng loạt nổ súng áp đảo bọn gián điệp
biệt kích làm chúng chở tay không kịp, trận đánh chỉ diễn ra trong 2 phút 7
giây. Bọn gián điệp biệt kích bị ta tiêu diệt tại trận 12 tên, còn 07 tên khác
bị bắt sống. Cơ quan an ninh thu 02 tàu xâm nhập cùng toàn bộ vũ khí, phương tiện
và kết thúc thắng lợi trận đánh quyết định.
Ngày 11/9/1984, Sáu Thanh (K64) đưa Mai Văn Hạnh về thị xã
Cà Mau theo kế hoạch và bị tổ trinh sát vũ trang của ta ập vào bắt giữ. Tiếp
đó, Hồ Thái Bạch cũng bị bắt khi đang viết thư trao đổi công việc với Lê Quốc
Túy. Trận đánh kết thúc Kế hoạch CM-12 tiến hành nhanh gọn theo đúng yêu cầu và
phương án tác chiến đã đề ra.
Kết thúc KH.CM12, lực lượng CAND đã bắt gọn 18 chuyến xâm nhập, bắt 146
tên gián điệp biệt kích, thu 02 tàu vận tải, hơn 143 tấn vũ khí các loại, 12 bộ
điện đài, 9.300USD, gần 300 triệu tiền Ngân hàng Việt Nam giả . Song song với
chiến thuật dụ địch ở nước ngoài về nước để bắt, lực lượng Công an còn thúc đẩy
làm cho các đối tượng phản động ở trong nước đang hoạt động bí mật phải bộc lộ
để trấn áp. Từ năm 1982 đến 1984, lực lượng Công an các tỉnh phía Nam lần lượt
trấn áp 10 tổ chức phản động trong nội địa liên quan đến KH.CM12, bắt toàn bộ số
cầm đầu cốt cán, giáo dục tại chỗ những người vì cả tin hoặc bị lừa gạt mà theo
chúng. Nhờ đó, lực lượng CAND đã chủ động ngăn chặn các cuộc vũ trang bạo loạn
manh động chống chính quyền vào các năm 1982, 1983, 1984, bẻ gãy hướng tấn
công chủ yếu của phản động quốc tế.
Tháng
12/1984, Toà án tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh công khai xét xử các đối tượng,
tuyên 04 án tử hình và gần 100 bản án khác, với sự chứng kiến của nhiều phóng
viên trong nước và quốc tế, cùng với cuộc triển lãm phương tiện chiến tranh, hoạt
động gián điệp cho hàng chục vạn người tham gia nhưng các đối tượng cầm đầu ở
nước ngoài vẫn không biết sự thật; đến năm 1987 chúng tiếp tục tổ chức xâm nhập
bằng đường bộ, đường biển về nước và đều bị ta bắt gọn. Sau thất bại này, Lê Quốc
Tuý, kẻ cầm đầu tổ chức gián điệp bị đột tử ở nước ngoài, những tên còn lại ở mật
cứ phải tự giải tán. Tổ chức gián điệp do Lê Quốc Tuý, Mai Văn Hạnh cầm đầu -
những tên lính xung kích trong “Chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các đối tượng
phản động quốc tế bị xoá sổ.
Một chiến dịch phản gián với 07 năm đấu mưu, đọ trí và thắng lợi to lớn
là những đòn đánh mạnh, đánh trúng, đánh hiểm của lực lượng CAND đối với các đối
tượng phản cách mạng ở trong nước và nước ngoài, trở thành mốc son mới trên bước
đường trưởng thành của mình, làm dày thêm truyền thống vẻ vang của CAND Việt
Nam. Ghi nhận, đánh giá chiến công đặc biệt xuất sắc của các lực lượng tham gia
thực hiện thắng lợi KH.CM12, Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân cho 2 tập thể, 3 cá nhân và nhiều phần thưởng cao quý
khác cho các đơn vị, cá nhân đã tham gia KH.CM12. Để ghi lại dấu ấn lịch sử Hòn
Đá Bạc - địa danh trong thắng lợi KH.CM12, ngày 22/6/2009, Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch đã công nhận Hòn Đá Bạc - Trung tâm Kế hoạch phản gián CM12
(09/9/1981 – 09/9/1984) là di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia.
2.2. Kết quả, ý nghĩa của Kế hoạch
phản gián CM12
Kế hoạch phản gián CM12 đã thắng lợi hoàn toàn là mốc son
chói lọi, tô đậm truyền thống vẻ vang của lực lượng Công an nhân dân. Kết thúc
KH.CM12, lực lượng CAND đã bắt gọn 18 chuyến xâm nhập, bắt 146 tên gián điệp biệt
kích, thu 02 tàu vận tải, hơn 143 tấn vũ khí các loại, 12 bộ điện đài,
9.300USD, gần 300 triệu tiền Ngân hàng Việt Nam giả .
Song song với chiến thuật dụ địch ở nước ngoài về nước để bắt,
lực lượng Công an còn thúc đẩy làm cho các đối tượng phản động ở trong nước
đang hoạt động bí mật phải bộc lộ để trấn áp. Từ năm 1982 đến 1984, lực lượng
Công an các tỉnh phía Nam lần lượt trấn áp 10 tổ chức phản động trong nội địa
liên quan đến KH.CM12, bắt toàn bộ số cầm đầu cốt cán, giáo dục tại chỗ những
người vì cả tin hoặc bị lừa gạt mà theo chúng. Nhờ đó, lực lượng CAND đã chủ động
ngăn chặn các cuộc vũ trang bạo loạn manh động chống chính quyền vào các năm
1982, 1983, 1984, bẻ gãy hướng tấn công chủ yếu của phản động quốc tế.
Kế hoạch phản gián CM12 mang những ý nghĩa lịch sử:
Thứ nhất,
thắng lợi của KH.CM12 là thắng lợi to lớn, toàn diện cả về quân sự, chính trị,
an ninh. Vạch trần âm mưu, hoạt động của tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực
lượng yêu nước giải phóng Việt Nam”; và các nước thù địch trước dư luận quốc
tế; làm rõ mối quan hệ của các tổ chức phản cách mạng với một số tổ chức của
nước ngoài có âm mưu, chiến lược chống phá Việt Nam; góp phần nâng cao được uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ hai, thắng lợi
của KH.CM12 là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và sáng tạo của lực lượng CAND,
có ý nghĩa rất lớn, mang tầm chiến lược, không chỉ về mặt nghiệp vụ mà còn có
giá trị lịch sử quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia; là thắng
lợi của tinh thần cách mạng, nguyên tắc chỉ đạo tập trung, sáng suốt, tiến
công, mưu trí, sáng tạo, anh dũng và sự chấp nhận hy sinh, khắc phục khó khăn,
gian khổ của lực lượng CAND Việt Nam – nhạy bén trước âm mưu của địch. Khẳng
định lực lượng CAND đã có những bước tiến quan trọng trong việc vận dụng linh
hoạt các biện pháp, phương châm, nguyên tắc đấu tranh; có vai trò tiên quyết
trong việc phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giúp Đảng và Nhà nước
triển khai các chính sách mới vượt qua giải đoạn lịch sử vô cùng khó khăn để
khởi xướng và thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đất nước.
Thứ
ba, thắng lợi của KH.CM12 đã làm thất bại và phá
sản phương thức hoạt động nguy hiểm của địch, góp phần quan trọng trong việc
giữ vững an ninh chính trị
ở miền Nam nước ta. Đây không chỉ là
xóa sổ một tổ chức của bọn phản động lưu vong, mà còn làm thất bại chiến tranh
phá hoại nhiều mặt của cơ quan đặc việt nước ngoài, làm phá sản toàn bộ hoạt động
tập hợp lực lượng, huấn luyện vũ trang và xâm nhập từ bên ngoài vào, câu kết,
kích động lực lượng bên trong nổi dậy, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu bạo loạn,
lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch và đối tượng phản động
trong và ngoài nước.
Thứ tư, thắng lợi
của KH.CM12 là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo, hiệu quả các bài học kinh
nghiệm về nhiều mặt mà lực lượng CAND đã tích lũy được trong lịch sử đấu tranh
chống thù trong giặc ngoài vào công tác đánh địch với loại đối tượng có những
đặc điểm mới, trong điều kiện hoàn cảnh mới với phạm vi không gian rộng lớn,
thời gian kéo dài, góp phần quan trọng vào việc bổ sung lý luận CAND.
Thứ năm, thắng lợi
của KH.CM12 góp phần tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân, các cơ
quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức tôn giáo, dân tộc
về tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh không khoan nhượng với các đối
tượng và tổ chức phản động; nâng cao uy tín, hình ảnh của lực lượng CAND trong
công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia.
Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của
KH.CM12 là bài học lớn, là mốc son chói lọi trong công tác đảm bảo an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn
xã hội đó là:
Thứ nhất, bài
học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ huy bảo đảm thắng lợi. Qua thực hiện KH.CM12 cho thấy yêu cầu
trong công tác lãnh đạo, chỉ huy khi thực hiện nhiệm vụ là sự tập trung, thống
nhất, xuyên suốt, chỉ đạo trực tiếp. Muốn thắng lợi phải có nhận thức đúng đắn
về tình hình, nhiệm vụ, chuẩn bị về lực lượng, phương tiện bảo đảm sự chỉ huy,
chỉ đạo. Phải đặt dưới sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp
lãnh đạo; nắm bắt kịp thời về âm mưu, phương thức, thủ đoạn, hoạt động mới của
các loại đối tượng trong từng thời kỳ để chủ động biện pháp đấu tranh, ngăn
chặn kịp thời, hiệu quả. Đấu tranh phải quán triệt và thực hiện đúng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phương châm,
nguyên tắc của lực lượng CAND; phát huy sức mạnh tổng hợp và có cơ chế phối
hợp, đồng bộ, chặt chẽ, thường xuyên giữa các lực lượng đấu tranh.
Thắng lợi của KH.CM12
là thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thống nhất của lãnh đạo Bộ,
Ban Chỉ đạo kế hoạch. Nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất mà lực
lượng CAND có đủ điều kiện huy động lực lượng tinh nhuệ, cán bộ, chiến sĩ dày
dặn kinh nghiệm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh và thống nhất hành động trong thời
gian dài; nhờ đó mà các lực lượng tham gia kế hoạch cũng như Công an các tỉnh
đã liên tục tổ chức điều tra, bóc gỡ những tổ chức phản động lớn, nhưng
vẫn đảm bảo bí
mật cho kế hoạch chung; góp phần giữ vững ổn định chính trị, giữ vững độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam.
Thứ hai, bài
học kinh nghiệm trong công tác vận động quần chúng, tiếp tục dựa vào
nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng nòng cốt, hỗ trợ lực lượng CAND phát
hiện, vây bắt đối tượng; đặc biệt, dựa vào quần chúng nhân dân để được cung cấp
thông tin giá trị về các đối tượng phản động trong và ngoài nước muốn chống phá
Nhà nước Việt Nam.
Thứ ba, bài học kinh nghiệm sử dụng
các biện pháp đấu tranh. Lực lượng CAND đã dự báo, dự đoán chính xác tình
hình, lãnh đạo, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệp đồng tác chiến đồng bộ và
nhịp nhàng, linh hoạt, sáng tạo khi triển khai các kế hoạch đấu tranh, nhờ đó
lực lượng Công an đã đánh mạnh, đánh đúng, đánh trúng; tìm tòi, phát huy sáng
kiến, triển khai các biện pháp đấu tranh, các chiến thuật đánh địch, đấu trí
thắng lợi với các đối tượng phản động quốc tế. “Sử dụng địch để đánh địch”, xâm
nhập vào các tổ chức địch để làm rõ âm mưu, tổ chức, lực lượng, phương tiện
hoạt động của địch.
Thứ tư, thắng lợi của KH.CM12 đã góp
phần để lại nhiều vấn đề lý luận nghiệp vụ CAND cũng như trình độ chỉ huy, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện, trở thành kinh nghiệm quý báu, có giá trị thực tiễn cao, góp
phần hoàn thiện, bổ sung hệ thống lý luận nghiệp vụ Công an về đấu tranh bảo vệ
an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
2.3. Những phần thưởng cao quý của
Đảng, Nhà nước và Bộ Công an tặng thưởng tập thể, cá nhân tham gia Kế hoạch
phản gián CM12
Một chiến dịch phản gián với 07 năm đấu mưu, đọ trí và thắng
lợi to lớn là những đòn đánh mạnh, đánh trúng, đánh hiểm của lực lượng CAND đối
với các đối tượng phản cách mạng ở trong nước và nước ngoài, trở thành mốc son
mới trên bước đường trưởng thành của mình, làm dày thêm truyền thống vẻ vang của
CAND Việt Nam. Ghi nhận, đánh giá chiến công đặc biệt xuất sắc của các lực lượng
tham gia thực hiện thắng lợi KH.CM12, Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 2 tập thể, 3 cá nhân và nhiều phần thưởng
cao quý khác cho các đơn vị, cá nhân đã tham gia KH.CM12. Để ghi lại dấu ấn lịch
sử Hòn Đá Bạc - địa danh trong thắng lợi KH.CM12, ngày 22/6/2009, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã công nhận Hòn Đá Bạc
- Trung tâm Kế hoạch phản gián CM12 (09/9/1981 – 09/9/1984) là di tích lịch
sử - văn hóa Quốc gia.
Tiếp nối thắng lợi KH.CM12, lực lượng CAND đã viết tiếp bản hùng ca chói
lọi, lập nên nhiều chiến công hiển hách, đó là:
Trên
lĩnh vực an ninh kinh tế, thông tin và truyền thông, đã tham mưu
giúp Nhà nước, các cơ quan ban ngành kịp thời hoạch định chính sách cũng như đề
ra các biện pháp quản lý kinh tế phù hợp với môi trường sản xuất kinh doanh
mới. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng, chủ động phòng ngừa kết hợp
với khám phá hàng chục chuyên án điển hình về buôn lậu, tham nhũng, hoàn thuế
VAT, trộm cước viễn thông, làm và vận chuyển tiền giả; bóc gỡ các mạng lưới tội phạm xuyên
quốc gia, phá vỡ mối liên kết các ổ, nhóm tội phạm mang tính quốc tế và nhiều
vụ án kinh tế lớn, góp phần hạn chế thiệt hại cho Nhà nước hàng ngàn tỉ đồng.
Trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, an ninh nông thôn, tôn giáo, dân tộc,
nhất là ở các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, lực lượng CAND
đã tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng, giúp
Nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa nâng cao hiểu biết chính trị, cảnh giác đề phòng
với thủ đoạn hoạt động tinh vi của các thế lực thù địch; tập trung công tác
nắm tình hình, kịp thời tham mưu giải quyết thành công các điểm
nóng, các vụ tranh chấp, khiếu kiện, như: Bạo loạn ở Tây Nguyên (năm
2001, 2004), Mường Nhé (Điện Biên) năm 2011, Hà Tĩnh năm 2016, Bình
Thuận năm 2018, Đồng Tâm (Hà Nội năm 2020…), góp phần ổn định tình hình
chính trị, xã hội.
Trên lĩnh vực chống xâm nhập, lực lượng CAND đã tập trung triển khai các
biện pháp nghiệp vụ, chủ động nắm tình hình; đẩy lùi, vô hiệu hoá và đập
tan nhiều hoạt động xâm nhập của địch; kiềm toả, vô hiệu hoá các chiến dịch phá
hoại tư tưởng; ngăn chặn kịp thời hoạt động của các tổ chức chính trị đối lập,
các thế lực thù địch, chống đối trong và ngoài nước. Đã khám phá hàng chục
chuyên án lớn (LH90, PQ55, HC96, SB36,…); trục xuất các đối
tượng lợi dụng mở cửa hợp tác quốc tế vào nước ta để phá hoại tư tưởng và hoạt
động gián điệp; ngăn chặn và đập tan nhiều chiến dịch gây nổ, gây bạo loạn, các
tổ chức đối lập mang tên “Chiến dịch Đông Xuân”, “Chiến dịch Hoa Lan”, “Chiến
dịch Hoa Phượng”, “Chiến dịch Hoà Bình”,... các tổ chức phản động lưu vong
“Liên đảng cách mạng Việt Nam”; “Đảng nhân dân hành động”; “Chính phủ Việt Nam
tự do”; tổ chức “Việt Tân”...; tác động,
vô hiệu hoá và đẩy lùi hàng chục chiến dịch gây nổ khác ngay từ khi các
đối tượng đang trong quá trình chuẩn bị.
Trên lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đã phát hiện, xử lý hàng trăm vụ vận chuyển vũ khí, chất nổ,
tài liệu, vật phẩm phản động, hàng cấm vào Việt Nam. Trong đấu tranh
phòng, chống xuất nhập cảnh trái phép, quản lý di cư, đã phối hợp
với các nước thực hiện chính sách nhập cảnh và cư trú, góp phần
ổn định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; bảo đảm an ninh,
trật tự trong nước, nhất là ở các tỉnh, thành phố phía Nam. Tham mưu
xây dựng, triển khai nhiều kế hoạch bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện
chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước, hội nghị quốc
tế diễn ra tại Việt Nam, góp phần
nâng cao vị thế, tiềm lực an ninh, đối ngoại của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đang là đòi hỏi
khách quan, tạo ra thời cơ, vận hội mới trong xu hướng phát triển, song cũng
đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là
trước tác động của Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, những vấn
đề an ninh phi truyền thống. Phát huy tinh thần chiến thắng KH.CM12, lực
lượng CAND nói chung, lực lượng An ninh nhân dân nói riêng phải luôn quán
triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an
ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người,
an ninh kinh tế… đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội
chính trị”; “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường
tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại… giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”[1];
tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, cùng toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kỷ niệm 40
năm thắng lợi KH.CM12 là dịp giúp cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân hiểu rõ hơn về hoàn cảnh lịch sử, diễn
biến, chiến công, thành tích, những cống hiến to lớn của lực lượng CAND nói
chung, lực lượng an ninh nhân dân nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; đồng thời giúp cán bộ, chiến sĩ vun đắp lòng tự hào, góp phần giáo dục
truyền thống vẻ vang của lực lượng CAND; tiếp tục học tập, phát huy những bài học
kinh nghiệm trong chiến dịch để vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng CAND trong tình
hình mới, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tiến tới Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIV của Đảng.
Liên hệ trách nhiệm bản thân
Bản thân tôi là một cán bộ chiến
sĩ Công an nhân dân, được đào tạo chuyên Trinh sát an ninh, có thời gian công
tác Đội An ninh, Công an huyện Trần Văn Thời, chính là nơi mà các chú, các anh
và nhân dân ta đã tham gia và góp công vào thắng lợi trong Kế hoạch phản gián
CM12 viết nên những trang sử vàng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Hiện tại tôi được phân công nhiệm vụ về công tác tại Công an xã Khánh Hải,
địa phương mà quân dân ta tổ chức đón bắt nhiều “chuyến xâm nhập” của tổ chức
địch (qua vàm Bảy Ghe và vàm Kênh
Mới). Vàm Bãi Ghe (Bảy Ghe) là nơi đầu tiên Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh chọn để
đưa toán biệt kích đầu tiên xâm nhập về để thành lập “Tổ đặc biệt” (tổ tiếp vận kinh tài) ở Cà Mau để làm
cầu nối tiếp nhận vũ khí, phương tiện, gián điệp biệt kích xâm nhập về bằng
đường biển. Với tinh thần cảnh giác cách mạng, quần chúng dân dân đã phát hiện
cùng lực lượng bắt những tên gián điệp đầu tiên như: Phạm Thanh Danh (K64) phụ trách chung;
Bùi Xuân Huy (K27) phụ trách điện đài liên lạc với trung tâm và đội tàu; Trịnh
Văn Kiếm (K59) và Doãn Văn Dũng (K61)…. tạo tiền đề quan trọng góp phần thực
hiện thắng lợi kế hoạch phản gián CM12.
Tiếp nối truyền thống cách mạng hào hùng trên còn đường bảo vệ an ninh tổ
quốc, trong thời đại phát triền hiện nay, trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế. Đặt ra không ít khó khăn, thử thách đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Phát
huy chiến công, thành tích của Kế hoạch phản gián CM12, trách nhiệm của bản
thân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng trong thời gian tới cần phải:
- Không ngừng học tập, rèn luyện
kỷ cương, phẩm chất cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước và mục tiêu của quốc gia, dân tộc.
- Nâng cao tinh thần đoàn kết, đồng
trí, đồng đội hỗ trợ lẫn nhau trong công việc góp phần xây dựng Đảng, chi bộ từng
bước tiến bộ, thật sự trong sạch, vững mạnh.
- Luôn nêu cao tinh thần chiến đấu,
kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Luôn nêu cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, chủ động phòng ngừa, phát hiện đấu tranh với mọi âm mưu thủ
đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và bọn phản động trong và ngoài nước.
- Sẵn sàng lắng nghe ý kiến, chia
sẻ kinh nghiệm, cầu thị học hỏi lẫn nhau; đồng cảm chia sẻ khó khăn; luôn nêu
cao tinh thần trách nhiệm với công việc được giao.
- Nêu cao tinh thần học tập nâng
cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu công tác, hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng lực lượng CAND ngày càng
chính quy, tinh nhuệ. Thường xuyên nghiên cứu các văn bản quy định về công tác
nghiệp vụ của lực lượng Công an, nhằm nâng cao sự hiểu biết, trình độ chuyên
môn, phục vụ tốt các yêu cầu công tác, hoàn thành tốt các nhiệm vụ, công tác đột
xuất theo sự phân công của BCH.
- Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ tại Công an cấp xã phải bám sát địa bàn, nắm được tâm tư nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, nắm chặt tình hình địa bàn, đối tượng theo thần “Xã bám cơ sở”,…Từ
đó, chủ động tham mưu, đề xuất, xử lý các vụ việc tại cơ sở góp phần ổn định tình
hình ANTT trên địa bàn.
- Bản thân có xây dựng kế hoạch,
chương trình công tác, tận tụy trong công việc, tích cực trong công tác vận động
quần chúng.. Tham mưu cho BCH xây dựng chương trình, kế hoạch công tác nghiệp vụ
thường niên, nhằm góp phần đảm bảo giữ vững tình hình an ninh trật tự trên địa
bàn.
- Làm việc có chương trình, kế hoạch
cụ thể, rõ ràng, báo cáo theo đúng thời gian quy định. Tham gia trực lễ, trực
chiến, bảo vệ các sự kiện quan trọng trong năm.